dạy đàn tỳ bà
Người đem cây đàn tỳ bà Việt đến với giới trẻ Nhịp sống TP - Nghệ sĩ tỳ bà Nghiêm Thu trải lòng: "Qua những năm tháng sóng gió, nhiều lần bỏ cây đàn tỳ bà mà nó vẫn cứ theo mình, tôi mới hiểu là cây đàn chọn người chứ không phải người chọn đàn". Ba phiên bản bảo vật quốc gia Hàn Quốc đến Việt Nam Nhịp sống
Nghiêm Thu - giảng viên, nghệ sĩ đàn tỳ bà một đời trăn trở việc giữ gìn tinh hoa dân tộc Cô Thu hiện là giảng viên đàn tỳ bà tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trước khi bén duyên với công việc giảng dạy, cô từng theo học đàn ở Học viện Hà Nội, học về nghiên cứu văn hóa cũng như có quãng thời gian gắn bó với đoàn ca múa nhạc Việt Nam.
Luan sao truc ve am nhac truyen thong đó tiểu luận môn sáo họ và tên: nguyễn tuấn kiệt mssv: ce171646 mã môn học: đsa102 gvhd: nguyễn văn quyết nguyễn tuấn kiệt
TTTĐ - Chào mừng Ngày Âm nhạc Việt Nam, nữ nghệ sĩ Vũ Diệu Thảo với cây đàn tỳ bà đã góp phần đáng kể với những thanh âm đẹp đẽ và duyên dáng. Thứ hai 03/10/2022 17:59 Hotline: 0929242424 Email: [email protected] congan.hanoi.gov.vn.
Để truyền cảm hứng và dạy dân IT chơi đàn tỳ bà "chất nghệ", bí kíp của cô Thùy Chi đó là "mùa nào thức nấy", chủ đề bài dạy luôn gắn liền với các sự kiện trong thực tế cuộc sống để tăng sự hấp dẫn đối với SV.
. Đàn Tỳ bà là loại nhạc cụ thuộc bộ dây gẩy của người phương Đông. Với chất liệu từ gỗ ngô đồng để mộc, phía cuối thân đàn ngay mặt có 1 bộ phận mắc dây là ngựa đàn. Cần khóa mặt sau và đường viền quanh thùng đàn làm từ gỗ hồng đào có đính cần xà cừ. Đầu đàn cong hình con dơi và được chạm khác khá tinh xảo, có 4 trục để lên dây phần đầu đàn. Ngựa trên và ngựa dưới được làm từ xương bò. Hình dạng của đàn tỳ bà giống như quả lê bổ đôi hoặc liên tưởng giống hình giọt nước Tại nước ta, đàn tỳ bà có mặt trong các dàn nhạc như nhã nhạc cung đình, lễ nhạc phật giáo, lễ nhạc cao đài, phường bát âm, dàn nhạc dân tộc,.. Đàn tỳ bà có xuất xứ từ nước ngoài nhưng qua thời gian, nó đã được bản địa hóa và trơ thành cây đàn của người Việt. Đàn tỳ bà thể hiện được sâu sắc đạm đà bản sắc dân tộc Việt trong cái hồn của khí nhạc. Màu âm đàn tỳ bà phát ra khá trong sáng, vui tươi, nó thể hiện được tính chất tươi sáng và trữ tình. Màu âm khá giống đàn nguyệt nhưng lại hơi đanh và khô hơn.
Giới thiệu Đàn tỳ bà chữ Hán 琵琶; bính âm pípá, romaji biwa, tiếng Hàn bipa[1] là tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người phương Đông, qua thời kì dài dùng nó đã được bản địa hóa khác nhau tuỳ theo từng vùng hoặc từng quốc gia. Hình thức cấu tạo Thùng đàn hình quả lê bổ đôi, lưng đàn cong, phồng lên ở giữa làm bằng gỗ cứng. Mặt đàn làm cho bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc, trên mặt đàn với phòng ban để mắc dây đàn. Thân đàn Đàn Tỳ Bà không có dọc cần đàn biệt lập mà dọc đàn gắn liền mang thân đàn, xưa kia vẫn có phím nhưng là phím giả. Ngày nay đàn Tỳ Bà có gắn 3 phím trên phải đàn và 11 phím gắn trên mặt đàn, ngoài ra còn thêm 2 phím cho 2 dây cao. Các phím đều phải chăng và gắn ngay lập tức kề nhau dựa theo thang âm bảy cung chia đều. Dây đàn Có 4 dây bằng tơ se nay thay bằng dây nylon. Bộ phận lên dây Có 4 trục gỗ để lên dây, ở phía cuối thân đàn với ngựa đàn để mắc dây phòng ban lên dây được cải tiến để dây ko bị chùng xuống. Phím gảy đàn nghệ nhân gảy đàn bằng miếng gảy nhựa hay đồi mồi mang các ngón tay, ngón hất, ngón vê, đặc biệt đàn Tỳ Bà sử dụng các ngón tay vẩy đuôi trên dây đàn gọi là ngón phi. Kỹ thuật diễn tấu Kỹ thuật diễn tấu của đàn Tỳ Bà có đa dạng ngón giống như đàn Nguyệt. Tư thế đàn Ngồi thấp xếp chân trên chiếu. Ngồi thẳng trên ghế, đàn được đặt gần như thẳng đứng. Kỹ thuật tay phải Tay bắt buộc gảy đàn, phương pháp dùng móng tay để đàn với phổ biến kỹ thuật phức tạp nhưng sinh động. Kỹ thuật tay trái Kỹ thuật tay trái của đàn Tỳ Bà có các ngón nhấn, ngón vuốt, ngón mổ, bấm hợp âm, đặc biệt đàn Tỳ Bà có lối đánh song thinh song thanh 2 đồng âm ở hai dây khác nhau. Ngón phi Ngón phi của đàn Tỳ Bà có thể đánh trên cả 4 dây hoặc phi trên từng cặp dây dây1+2; dây 2+3 và 3+4 hoặc phi trên từng dây 1 hoặc 4 dễ dàng hơn. Ngón nhấn Các phím đàn gắn bí quyết nhau ko xa lắm, mỗi phím lại ko cao như đàn Nguyệt nên các loại ngón nhấn nhấn, nhấn luyến lên, nhấn láy… đều sở hữu các hạn chế, thường chỉ nhấn từ nửa cung tới 1 cung ngay tắp lự bậc, hiệu quả ngón nhấn thấp nhất là khoảng âm trầm và 1 phần khoảng âm giữa. Ngón vuốt Được tiêu dùng rộng rãi ở đàn Tỳ Bà, trong những tác phẩm cổ truyền ngón vuốt được dùng phổ biến như ngón nhấn của đàn Nguyệt. Ký hiệu ngón vuốt không vê dùng gạch chéo nối giữa hai nốt. Vuốt với vê dùng gạch chéo nối giữa hai nốt song song gạch hai gạch chéo ở nốt nhạc sở hữu đuôi, nếu nốt nhạc ko sở hữu đuôi thì gạch hai gạch chéo ở trên hoặc ở dưới nốt. Vuốt xuống Là bí quyết vuốt dây của tay trái trong khi tay nên ko gảy, không vê, ko phi, âm thanh các ngón vuốt xuống phát ra nhỏ, yếu nhưng ko thể dùng trong hòa tấu. Do vậy các âm vuốt thường xen kẽ có những âm gảy, vê hay phi để sở hữu thể thừa hưởng dư ba của những âm ấy. Vuốt rộng rãi dây Có thể vuốt hai, ba dây 1 khi trong lúc tay buộc phải gảy, vê hay phi, kỹ thuật nầy ít dùng trong diễn tấu nhạc cổ truyền. Ngón chụp Tay trái ngón một bấm vào 1 cung phím, tay buộc phải gảy dây, khi âm thanh vừa phát ra, ngón 2 hoặc 3 bấm mạnh vào cung phím khác thường là ngay lập tức bậc cao hoặc thấp âm thanh từ cung phím nầy vang lên mà không phải gảy đàn. Âm luyến nghe được do một phần của dây đàn còn chấn động, 1 phần do ngón tay mổ vào cung phím tạo thêm chấn động. Âm luyến nghe yếu nhưng mềm mại, ở những thế bấm cao âm luyến nghe kém vang buộc phải ít được sử dụng. Ký hiệu ngón chụp dùng dấu luyến giữa những nốt nhạc. Ngón mổ Gần giống như ngón luyến, nhưng tay phải không gảy dây mà ngón tay trái cứ mổ vào những cung phím để phát ra âm thanh, âm thanh ngón mổ nghe nhỏ, yếu và sở hữu màu âm riêng biệt. Không nên dùng ngón mổ trong bản nhạc sở hữu tốc độ nhanh và trong hòa tấu vì hiệu quả ngón mổ nghe siêu nhỏ. Ký hiệu ngón mổ ghi như dấu hỏi đặt trên nốt nhạc. Ngón vỗ Một ngón tay đang bấm trong khi ngón khác vỗ lên dây đàn. Chồng âm, hợp âm Đàn Tỳ Bà có thể cách đánh chồng âm dễ dàng và hiệu quả nhất là dùng bằng miếng gảy, khi đánh chồng âm, hợp âm có thể đánh bằng móng tay hoặc phím gảy trên 4 dây, hai hoặc ba dây ko khó khăn và giữ tính chất đệm trong hòa tấu. iểm độc đáo nhất của đàn Tỳ Bà là đánh hợp âm rãi, công nghệ đánh hợp âm rãi của đàn Tỳ Bà có hiệu quả đặc trưng và độc đáo như tiếng Á của đàn Tranh. Đàn Tỳ Bà chế tác bởi Xưởng đàn Hương luôn cho âm thanh hoàn hảo, được những nghệ sĩ nổi tiếng yêu mến và lựa sắm để biểu diễn độc tấu và hòa tấu trong các dàn nhạc dân tộc đương đại Việt Nam. Nếu quý khách có nhu cầu cần tìm mua đàn tỳ bà chất lượng vui lòng liên hệ số hotline
I. Tổ tiên tôi gốc người Hoa Cùng chung một số phận với Chị đàn Tranh, mà Chị càng ngày càng được muôn người ưa chuộng, bao nhiêu thiếu nữ xinh đẹp khắp ba miền Bắc Trung Nam nâng niu, chăm sóc, ấp ủ trong tay, để trên đùi, còn tôi chỉ được 1 số ít nhạc sĩ miền Trung chiếu cố, toàn là các nhạc sư lớn tuổi của dàn Nhã nhạc cung đình ngày xưa còn sống, hay những thầy dạy đàn Tỳ bà, những cụ nghiêm trang có mặt trong dàn ngũ tuyệt của ca Huế. Còn tại miền Bắc, miền Nam hiện tại số người biết dùng tôi theo phong bí quyết truyền thống Việt Nam, chắc chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Tôi nói chung số phận, vì Chị đàn Tranh cũng như tôi lần đầu tiên được nêu danh trong sách sử, khi ông Lê Tắc ghi trong quyển An Nam chí lược tên dàn tiểu nhạc sử dụng ngoài cung đình nhà Trần trong ấy có Chị đàn Tranh, và tôi cạnh đàn cầm 7 dây và cây "song huyền" đàn hai dây mà không biết rõ là đàn Cò, đàn Nhị hay đàn Nguyệt, đàn Kìm. Cùng chung số phận vì chúng tôi không được như anh đàn Đáy hay chị đàn Bầu, do người Việt chế tạo, truyền thuyết ghi lại xuất xứ của mình, sanh đẻ, lớn lên tại nước Việt. Còn chị đàn Tranh và tôi trong gia phả chép rằng tổ tông chúng tôi từ Trung Quốc sang nước Việt, mang thể trước khi ông Lê Tắc nhắc tới chúng tôi, vì lúc những thợ chạm khắc nhạc công trên tảng đá vuông dùng làm chân cột chùa Vạn Phúc, tại Phật Tích, tỉnh Bắc Ninh, chạm tôi giữa hai nhạc công dùng ống sênh, và ống tiêu thổi dọc. Chị đàn Tranh với vóc dáng mà không thấy có các con nhạn căng dây, đứng giữa hai nhạc công thổi ống sênh và ống sáo ngang. Lúc ấy là dưới triều đại Nhà Lý. Các nhà khảo cổ cho rằng Chùa Phật Tích được xây vào thế kỷ 10. Như vậy là Chị đàn Tranh và tôi đã được du nhập vào nước Việt, được dân Việt cho nhập tịch và sử dụng, rồi truyền lại cho con cháu, từ đời nầy sang đời khác. Chúng tôi đã chịu thử thách của thời gian, hơn ngàn năm, đã kể được chân thực tiếng nhạc của dân Việt, chúng tôi mới sống sót đến ngày nay. Không phải như anh đàn "Cầm", có mặt trong dàn tiểu nhạc do Lê Tắc ghi lại, sau nổi tiếng một thời dưới nhà Trần, nhờ mang sách Đại Việt Sử ký toàn thư chép lại sự kiện Nhạc sư Trần Cụ, am hiểu đàn Cầm và đã dạy cho Thái tử biết đàn Cầm và đá cầu. Nhưng rồi có lẽ không nói được rõ ràng tiếng kể âm nhạc Việt, đàn Cầm bị chìm trong quên lãng. Ngày nay, không còn thấy ai biết đàn Cầm nữa. II. Cuộc đời long đong lao đao Suốt đời nhà Trần, không nghe ai đề cập tới hai chị em tôi. Chúng tôi yên phận trong dàn Tiểu nhạc dùng trong dân gian. Qua đời nhà Lê, khi Lương Đăng qui định nhạc cung đình theo loại của Nhạc nhà Minh, tôi còn có mặt trong dàn Đường Hạ chi nhạc. Hỏi thăm chị đàn Tranh, thì nghe kể Chị không còn ở trong dàn nhạc nào cả. Tôi rất buồn. Nhưng qui định của Lương Đăng không được ai tán thành cả. Cụ Nguyễn Trãi đã dâng biểu để tâu có Vua vì sao Người đã từ nhiệm không ở trong Ban lo việc qui định Nhạc Triều Đình, nêu các loại sai của Lương Đăng. Những đại thần thông thạo âm nhạc như Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, đều không tán thành những qui chế do Lương Đăng bày ra. Tôi ở trong dàn Đường Hạ chi nhạc mà có được ra mắt triều thần đâu. Nhưng đến đời Hồng Đức 1470-1497, ba vị Đại thần nhắc trên chế ra hai đội Đồng Văn và Nhã Nhạc để đàn và hát trong cung đình. Tôi được biết Chị đàn Tranh cũng như tôi được tuyển vào trong hai đội ấy. Nhưng những Vị Đại thần không muốn giữ tên "tranh" hay "tỳ bà" là tên Trung quốc, cần đặt cho tôi tên "tứ huyền cầm" đàn 4 dây còn Chị đàn Tranh lúc ấy có 15 dây mang tên là "thập ngũ huyền cầm". Sau đó, mang sự đổi thay cực kỳ lớn từ đời Quang Hưng 1578 Hai đội Đồng Văn, Nhã nhạc chỉ còn được dùng trong các lễ lớn như Tế Giao, Tế Miếu, Đại triều. Trong những dịp khác, lần lần Đồng Văn, Nhã Nhạc bị đội Giáo phường trong dân gian thay thế. Lúc nầy, tôi bị xem nhẹ và chị đàn Tranh may mắn hơn tôi được sung vào Đội Giáo phường, góp mặt mang đàn Đáy, đàn Trường cùng làm bằng cây tre dài 3, 4 thước ta, do bà lão nghệ nhân gõ để giữ nhịp, sở hữu trống yêu cổ, với mẫu địch quản mà tên gọi thường nhật là Quyển Thúy. Có đào nương vừa ca vừa gõ phách mang cả sênh tiền. Khi đờn trong cung điện gọi là đi “hát cửa quyền" thì đội Giáo phường với cực kỳ rộng rãi nhạc công đờn "cầm", nghĩa là chiếc đàn dây, trong ấy Chị đàn Tranh 15 dây được gọi trở lại bằng tên tộc của mình là đàn Tranh. Và còn rộng rãi trống lớn trống nhỏ, ống địch, hải loa Nhưng tới khi cuối đời nhà Lê, chẳng biết ai đã làm lại dàn nhạc trong cung đình, cơ mà với một lần đổi thay lớn Chị đàn Tranh không còn có mặt trong dàn nhạc triều đình. Mà người ta lại tuyển tôi vào để góp mặt có đàn Nguyệt lúc ấy tôi nghe những nhạc công gọi là "cái đàn song vận", đàn Tam, đàn Nhị, có hai loại sáo, 1 trống bản, 1 tam âm la và một sênh tiền. Chúng tôi được gởi sang Trung Quốc để sung vào mẫu Cửu tấu của Nhà Thanh. Chúng tôi có gặp mấy nhà sử học của Trung Quốc, tới hỏi thăm chúng tôi về tên các nhạc khí, xem xiêm y chúng tôi và ghi chép rõ ràng. Họ nói họ vâng lịnh triều đình ghi lại nhiều khía cạnh về 9 dòng nhạc nước ngoài có mặt tại triều đình nhà Thanh, họ chép vào quyển Khâm định Đại Thanh Hội điển sự lệ, mà trong nước mình có Giáo sư Trần Văn Khê đọc được vả ghi lại Quyển số 538, tờ 3b. Đến lúc Vua Quang Trung thắng trận Đống Đa xong, gởi phái bộ hữu hảo sang chầu Vua Càn Long, Vua nhà Thanh phong cho Vua Quang Trung tước An Nam quốc vương, người Trung Quốc gọi dàn nhạc chúng tôi là "An Nam quốc Nhạc". Tuy sống xa đất nước, chúng tôi cũng nghe ngóng tin tức nơi nước nhà. Khi biết Chúa Nguyễn Ánh, thống nhứt bình định đất nước lấy tên nước là Việt Nam sau khi Ngài lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, từ năm 1802, chúng tôi hiểu tại sao người Trung Quốc đổi tên chúng tôi lại là "Việt Nam quốc nhạc." Tôi mang dịp về nước, trong khi nhà Nguyễn chỉnh đốn nhạc cung đình. Lập dàn Đại Nhạc gồm Kèn trống là chánh. Và dàn Nhã nhạc cũng gọi là Tiểu nhạc hay Ti trúc tế nhạc, vì dàn nhạc gồm các nhạc khí mắc dây tơ và cây sáo ngang làm bằng trúc. Tôi vẫn còn được có mặt trong dàn nhạc cung đình còn Chị đàn Tranh lại được trọng dụng trong dân gian và trở thành nhạc khí quan yếu của nhạc thính phòng. Có lúc song tấu đàn Tranh và đàn Nguyệt, tam tấu đàn Tranh, đàn Nguyệt đàn Nhị. Chị đàn Tranh dễ nhìn vô cùng. Chị đề nghị chọn tôi và cây đàn Tam để gia nhập sở hữu tam tấu của Chị. Chúng tôi thành ban "ngũ tuyệt" của ca nhạc thính phòng Huế. Đàn tranh thời xưa Chưa bao giờ tôi sung sướng bằng lúc nầy. Trong triều đình những ông hoàng, bà chúa khômg ngại ấp ôm tôi vào lòng. Tôi vừa có mặt trong dân gian, vừa được tham dự dàn Nhã nhạc trong Đại nội. Nhưng Chị đàn Tranh được nhiều người ưa chuộng hơn tôi. Các thiếu nữ, con nhà quan anh thế phiệt đua nhau học đàn Tranh. Mừng cho Chị và cũng lo cho mình. Tại Huế tôi được rộng rãi nhạc sư, nhạc sĩ truyền dạy cho những nhạc sĩ trẻ. Các hoàng thân Bửu Lộc, Vĩnh Trân, Vĩnh Phan, đều nổi tiếng danh cầm và biết đàn đa dạng cây kể cả đàn Tỳ bà, cũng như nhạc sư nổi tiếng Cụ Lữ Hữu Thi, Cụ Nguyễn Kế. Tôi được Ông Cả Soạn chăm sóc, truyền nghề cho nhiều nhạc công trẻ tuổi. Ông Cả Soạn đặt tên Binh, Thơ, Đồ, Trận cho 4 dây Đài, Thứ đài, Trung, Tiếu. Tôi với theo Cụ Trần Quang Thọ, từ Trung di cư vào Nam, sanh con là Trần Quang Diệm, nức tiếng là Ông Năm Diệm, cũng chuyên đàn Tỳ bà. Ông Năm đặt tên 4 dây của tôi là Tòng, Lan, Mai, Trúc, đúng theo giọng Hò Xang, Xê, Líu. Hậu duệ của ông Năm là Trần Văn Khê, còn giữ kỹ thuật đàn của Ông, qua các buổi dạy truyền ngón của Bà Ba Viện, con gái của Ông Năm. Một hôm Trần Văn Khê đàn Tỳ bà và kể chuyện 4 tên Tòng Lan Mai Trúc cho Mộng Trung nghe. Cô em họ và đầu ông cố vó Trần Văn Khê, xúc động đã viết ra mấy vần thơ Bốn dây Tỳ bà Tùng trong giá buốt vẫn xanh tình Lan dãi phong trần, áo vẫn trinh Mai đón ngành xuân, lòng ngạt ngào trắng Trúc noi quân tử chẳng cầu vinh. Tình xanh, tròng trắng áo trinh, Gấm hoa chẳng thiết, danh lợi chẳng màng Tơ mòn thương ấp phím loan, Đầy vơi tâm sự gởi sang lòng đàn. Ngày nay, trong Nhạc viện Hà Nội, và tại Huế, còn mang các lớp dạy đàn Tỳ bà. Nhưng dạy theo phong bí quyết đàn mới của Trung Quốc ngày nay. Nhạc khí cũng thay đổi. Những mảnh "tượng" bằng ngà trên đàn xưa để trang trí, nay biến thành phím. Tiếng đàn phi, hưởng, chầy của đàn Tỳ bà xưa, nay ít người còn sử dụng mà thay vào ấy mang những kỹ thuật trì tục thay đổi, đánh hai dây ba dây 1 lượt, có hợp âm, có chạy chữ. kỹ thuật rất cao. Mà kỹ thuật còn sử dụng để "biểu dương kỹ thuật”. Tôi còn chờ đợi những nhạc sĩ trẻ đem khoa học phụng sự nghệ thuật. Tôi rất vui mừng khi biết rằng Unesco trong năm 2003 đã ghi Nhã nhạc tức Nhạc cung đình Huế vào danh sách các "Kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại". Và tôi rất mong rằng người Việt hữu trách ngày nay, biết giữ gìn loại hay chiếc đẹp của thời xưa và "phát huy" không với tức thì đổi mới bằng bí quyết chạy theo loại hào nhoáng bên bên cạnh của nhạc phương Tây mà quên dòng tế nhị thầm kín bên trong của nhạc cổ Việt Nam. Tôi còn có mặt trong dàn Nhã nhạc và chẳng biết trong tương lai, những giới trẻ sẽ cho tôi đề cập tiếng nhạc gì? Tại Nhạc viện Hà Nội có nữ nghệ sĩ Mai Phương sang Trung Quốc học đàn Tỳ bà trở về nước, được Nhạc Viện Hà Nội công nhận Giảng viên Trưởng khoa đàn Tỳ bà. Nhưng nghệ sĩ Mai Phương biết kỹ thuật đàn Tỳ bà theo phong cách Trung Quốc vô cùng rành, phải trong lúc truyền nghề dạy cho học sinh thì từ tư thế ngồi đàn cho đến kỹ thuật hai bàn tay khảy và nhấn đều giống phương pháp đàn của Trung Quốc. Cô cũng mang ý tìm hiểu truyền thống cây đàn Tỳ bà theo phong cách Việt Nam, nhưng mang lẽ chưa gặp được Thầy thuyết phục cô. Dầu sao, cô cũng đã tạo được một thế hệ trẻ biết đàn Tỳ bà và sau này vươn lên là những Giảng viên về Khoa Tỳ bà cho những Nhạc Viện TP. HCM và Huế. Trong số học viên của Nhạc sĩ Mai Phương, có Phạm Thị Huệ là người với tiếng đàn hay nhất. Nhạc sĩ Mai Phương đã dạy Phạm Thị Huệ từ lúc còn nhỏ mới vào Nhạc viện và vì Huệ mồ côi mẹ, cô nhận bé Huệ làm con, đặt tên Phạm Thị Huệ thành Mai Huệ. Sau khi ra trường Mai Huệ đỗ cao được giới thiệu khiến Giảng viên đàn Tỳ bà cho Nhạc viện Hà Nội. Tôi rất vui khi biết Giảng viên Mai Huệ mang ý tậu học nhạc Việt cổ truyền theo phong cách xưa nhờ gặp được các người Thầy như Bùi Trọng Hiền, Nghệ nhân Kim Sinh. Tôi bắt đầu được nhắc đến trong nền âm nhạc Việt Nam theo phong cách Huế bài “Lưu thủy”, “Kim tiền” và tiếng nói của đàn Tỳ bà Miền Nam bài “Dạ cổ”, “Lý con sáo”. Tôi rất vui vì nhờ mang nghệ sĩ Mai Phương và Nhạc viện Hà Nội mà trong mấy năm sau này tôi được nằm trong vòng tay của các nữ nhạc sĩ trẻ, đẹp và có tài. Đến lúc Mai Huệ biên soạn Luận văn Thạc sĩ mà tôi là đề tài chính, tôi theo dõi công việc của cô và thấy rằng lúc so sánh tôi và những nhạc khí cùng mẫu thì tại Việt Nam tôi có mặt sau những cây đàn Pipa Trung Quốc và Triều Tiên; Piwa Nhựt Bổn; nhắc cả những đàn khác như Barbat Ba Tư... Tôi rất vui vi lần đầu tiên - một nhạc sĩ trẻ Việt Nam nghiên cứu về tôi một cách sâu sắc, toàn diện. Nhận xét của cô giống như bài Giáo sư Trần Văn Khê đã viết về tôi gần 10 năm trước và có những điều tôi đã biết được khi tôi đi Trung Quốc xuất xứ của tôi. Các bạn ơi! Hôm nay tôi có đôi điều tâm sự, nói lại những lúc tôi vừa "nhập tịch" âm nhạc Việt Nam. Nhưng tôi đã mang lần đến Trung Quốc, và đã đi ngược chiếc lịch sử để mua khởi thủy xa xưa của tôi. Chuyến đi tìm cội nguồn đấy cực kỳ thú vị, dẫn tôi đi viếng các Động Đôn Hoàng Trung Quốc và đi dài theo "Con đường tơ lụa". Và tôi đã kinh ngạc vì người ta tưởng tôi gốc ở Trung Hoa. Nhưng bạn có biết cha ông tôi sanh ra tại nước nào chăng ? Lần sau, tôi sẽ thuật lại cho các bạn nghe chuyến đi tìm cỗi nguồn của tôi.
Dạy học đàn Tỳ Bà tại trung tâm nghệ thuật Adam Giới Thiệu Tỳ Bà là tên gọi của một loại nhạc cụ dây gẩy. Nhiều tài liệu đã cho biết, Tỳ Bà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa, rồi ở Nhật Bản với tên gọi BiWa. Người ta chế tác đàn Tỳ Bà bằng gỗ Ngô Đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn hoặc thủ đàn cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây. Lớp học đàn tỳ bà tại trung tâm nghệ thuật Adam Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 – 100 cm. Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn. Ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon. Đàn có 4 dây lên theo 2 quãng 4, mỗi quãng 4 cách nhau một quãng 2 Đồ – Fa – Sol – Đô1 hoặc Sol – Đô1 – Rê1 – Sol1. Khi chơi đàn nghệ nhân gẩy đàn bằng miếng đồi mồi hoặc miếng nhựa. Ở Việt Nam đàn Tỳ Bà có mặt trong các dàn nhạc Nhã nhạc, Thi nhạc của cung đình, Thiền nhạc của phật giáo, ban Nhạc tài tử, Phường bát âm, Dàn nhạc dân tộc tổng hợp. Mặc dù đàn Tỳ Bà có xuất xứ từ các nước khác. Nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa và trở thành cây đàn của Việt Nam. Thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc. Bảng học phí Dạy học đàn Tỳ Bà Kiếu lớp Học phí Thời gian Ngày học Số buổi Tổng học phí Cá nhân1 giảng viên – 1 học viên 50-60 phút Tự chọn ngày học 12 Tập thể 1 giảng viên – 2 học viên 60 phút Trung tâm sắp xếp 12 Tập thể 1 giảng viên – 4 học viên Trung tâm sắp xếp 12 Ngoài giảng dạy đàn Tỳ Bà trung tâm còn kinh doanh các loại đàn với giá thành hợp lí cho các học viên tại trung tâm, bạn sẽ được hưởng nhiều ưu đãi khi mua nhạc cụ từ trung tâm. Đăng ký & Nội dung Học viên có thể đóng trước 1/2 học phí hoặc đặt trước một chi phí nhất định để Ban quản lý Trung tâm xếp lớp. Để nâng cao hiệu quả học tập đối với các lớp học tập thể, học viên có thể mang theo tai nghe cá nhân của mình. Ngoài học phí nêu trên, học viên cần mua thêm giáo trình; tùy vào trình độ của từng học viên sẽ có giáo trình khác nhau. Các lớp học sẽ được sắp xếp theo lịch của học viên. Do trong một lớp học có thể có nhiều học viên với các trình độ khác nhau. Nên mỗi học viên sẽ được giảng dạy tập trung vào trình độ riêng của mình. Nghỉ học & Bảo lưu Học viên có nhu cầu nghỉ học phải báo trước 2h lớp Tập thể hoặc nửa ngày lớp Cá nhân, buổi học đó sẽ được bảo lưu; học viên nên thông báo để được học bù vào ngày gần nhất. Nếu học viên tự ý nghỉ khi chưa có phép, buổi học sẽ không được bảo lưu. Hãy đến với Adam, bạn sẽ được khám phá một chương trình dạy học đàn Tỳ Bà đặc biệt và thú vị nhất . Các học viên sẽ vô cùng ưng ý với phong cách dạy và học của Trung tâm Nghệ thuật Adam. Sự giảng dạy của các Giảng viên đến từ Nhạc viện Hà Nội cùng với một môi trường học tập thân thiện và đầy chuyên nghiệp. Các khóa học được thiết kế chuyên sâu với các mức độ khó khác nhau phù hợp với tất cả các học viên. Địa chỉ TRUNG TÂM NGHỆ THUẬT ADAM Adam 1 số 56 Trần Quang Diệu- Đống Đa- Hà NộiTel 2 Số 50M2 – Ngõ 112 Trung Kính – KDTM Yên Hòa – Cầu GiấyTel 3 A18 Ngõ 12 Láng Hạ – Ba Đình -Hà NộiTel 024 Hotline 0917 622 622 Website Facebook Trung tâm nghệ thuật Adam
dạy đàn tỳ bà